Thứ Bảy, 2 tháng 11, 2013

Báo cáo về bệnh Ung thư


;

Báo cáo về bệnh Ung thư

* Giới thiệu 
Bộ phim này dành để tưởng nhớ đến Clara Corriher, và cũng như hàng triệu trường hợp khác chưa được kể đến, đã đặt niềm tin vô vọng vào ngành công nghiệp ung thư.
Clara Corriher (1937-2010) Sau khi tinh thần và thể chất của cô đang dần hủy hoại (ví dụ như: “chemo-brain” hóa trị gây suy giảm chức năng nhận thức của não), Bác sĩ điều trị ung thư của Clara đã điều cô xuống một cái trạm xá. Điều trị viên của Clara, Nick, không muốn chứng kiến cảnh cô chết. Thế nên cô đã bị hất cẳng ra khỏi bệnh viện, mặc dù chỗ này còn tới hơn 50% chiếc giường trống. Nhân viên trạm xá duy trì cô trong tình trạng hôn mê bằng thuốc, do đó Clara sẽ không trở thánh gánh nặng cho họ. Họ hoàn toàn để cô trong trình trạng suy dinh dưỡng và mất nước. Họ lại gây mê cô ấy mỗi khi cô đủ tỉnh táo để kêu gọi sự giúp đỡ. Người thân và gia đình đã được trấn an tiếng thở thoi thóp bằng thứ âm thanh sôi sục. Điều trị như thế được coi là bình thường, thậm chí còn cao thượng, bởi những người trong cuộc. Bỏ đói tới chết là lối “đối xử nhân đạo” ở Nữu Ước, Và nó luôn luôn phù hợp hơn là cố gắng tìm ra những liệu pháp thay thế.
“Càng biết ít càng thi hành nghĩa vụ tốt” - George Garquhar

*Khải huyền của dịch bệnh 

Ung thư là một phần tất yếu của cuộc sống. Một hệ thống miễn dịch khỏe mạnh loại bỏ lượng tế bào ung thư được loại bỏ gần với mức mà chúng được tạo ra. Bùng phát ung thư trên diện nhỏ đã từng tồn tại vào những thời xa xưa. Nó được ghi nhận tại các tàn tích chứa nồng độ chì mức cao ở Roma và Ai Cập. Trước thế kỷ 20, ung thư hiếm gặp đến nỗi người ta chỉ xem nó như một loại bệnh không rõ triệu chứng. Sau cách mạng công nghiệp của thế kỷ 20, loài người đã tiếp xúc với hàng vạn loại độc tố mới, bao gồm các chế phẩm hóa dầu, Flouride, Chlorine và chất phóng xạ. Theo sau đó là nhựa. Sự tấn công vào hệ miễn dịch phức tạp của chúng ta bằng một loại thế hệ phân bón hóa học mới, là loại thiết kế để làm suy kiệt các chất dinh dưỡng quan trọng có từ đất trồng. Phần lớn những người sống trong đất nước công nghiệp hóa, đặc biệt là người Mỹ, không hề nhận ra rằng họ đang mắc chứng suy dinh dưỡng mãn tính. Chứng béo phì đã bùng nổ, bởi vì mọi người đang ở trong trạng thái “giả đói” dù cho có ăn bao nhiêu đi nữa, chứng này quay ngược lại kích thích lối ăn uống nghèo nàn, khiến các vấn đề xuống dốc về dinh dưỡng còn trầm trọng hơn nữa. “Thực tế đáng báo động nằm ở thực phẩm (trái cây, rau quả và ngũ cốc), bây giờ dù có nâng lên hàng triệu mẫu đất cũng không cung cấp đủ số lượng, chúng ta đang chết đói – việc chúng ta ăn được bao nhiêu cũng chẳng còn là vấn đề nữa” - Văn bản Thượng Nghị Viện Mỹ số 264 - Tiến Sĩ – Bác Sĩ Y khoa Michael Schachter
Phơi nhiễm phóng xạ, suy dinh dưỡng, và các loại độc tố hòa trộn với nhau tạo nên loại bệnh cảnh có tên là “nhiễm toan”, đó là ung thư không biểu hiện giai đoạn đầu. Điều này càng diễn tiến hơn về sau. “Chlorine là một kẻ đầu độc và giết người đứng đầu của thời hiện đại. Khi dứt được một triệu chứng bệnh này của nó, thì một cái khác lại lòi ra. Hai thập kỷ trước, khi chúng ta bắt đầu uống nước nhiễm Chlor vào năm 1904, thì cho đến hiện tại đã bùng phát các vấn đề về tim mạch, ung thư và lão hóa”. - Tiến Sĩ - Bác sĩ Y khoa Joseph M.Price
“Nếu Flour đổ xuống sông, sông ô nhiễm. Nếu đổ xuống hồ, hổ ô nhiễm, nhưng nếu đi vào hệ thống lọc nước uống thì lại không bị ô nhiễm. Thật là thần kỳ.” - Tiến Sĩ J. William Hirzy, E.P.A.
“Trích từ quyển cẩm nang, “Chất độc của các Sản Phẩm Thương Mại”, thì Flour độc hơn chì, và chỉ ít độc tính hơn Asen một chút. Đó là loại chất độc được tích lũy vào trong xương hàng năm.” - Tiến Sĩ – Bác Sĩ Y khoa Michael Schachter
“Theo nghiên cứu của ngành dịch tễ học, vào giữa những năm 70 bởi Tiến Sĩ Dean Burk, chủ nhiệm khoa hóa học tế bào của viện Ung thư quốc gia, đã chỉ ra rằng 10.000 hoặc nhiều hơn nữa những ca ung thư tử vong có liên quan đến flour, xảy ra hằng năm ở Hoa Kỳ. Năm 1989, tác nhân flour có khả năng biến đổi các tế bào bình thường thành tế bào ung thư đã được chứng nhận bởi phòng thí nghiệm quốc gia Argone”. - Tiến Sĩ – Bác Sĩ Y khoa Michael Schachter
Các công ty hóa chất đang tìm kiếm những cải tiến đề đầu độc chúng ta mỗi ngày. Có tới hàng vạn hợp chất độc hại trong thực phẩm. Dưới đây chỉ là một vài trong hàng ngàn ví dụ điển hình Bạn nghi ngờ rằng một lát thịt như thế này sẽ làm tăng khả năng mắc phải ung thư của bạn, bởi vì đây là thịt đỏ, ẩn chứa bên trong tất cả những miếng thịt đó.
Uy tín chính là nhờ bối cảnh thành lập ra ngành công nghiệp hóa chất Bản chất của thịt trong trạng thái tự nhiên là vô hại. Thực chất, ung thư được gây ra bởi muối Natri nitrat và kali nitrat được các nhà máy thực phẩm và hóa chất tẩm ướp vào trong “thịt đỏ”. Điều này đã được phía các nhà khoa học xác nhận hàng chục lần, nhưng đừng có mà trông mong sẽ nghe được nó từ phía bác sĩ điều trị của bạn. Các thực phẩm hữu cơ không bao giờ được các nhà máy thực phẩm hay hóa chất sử dụng trong quá trình nghiên cứu điều chế, bởi vì kết quả luôn bị thua lỗ.
Lấy một ví dụ về trường hợp của những quả trứng. Chuỗi thức ăn – trứng gà ta thì không tác động bất lợi đến việc hấp thụ cholesterol. Việc nghiên cứu đầu tiên là ở những quả trứng ung, bột vỏ trứng được thải ra từ các trại gà công nghiệp. Đó là cách mà họ thu mua dữ liệu để có được cái chứng nhận “khoa học” độc quyền, đúng như trong dự định ban đầu của mình.
Họ muốn chúng ta phải tin rằng bằng cách nào đó chúng ta đã bị ốm bởi những loại thực phẩm tự nhiên, một cái chuyện chưa bao giờ xảy ra trong suốt 9.000 năm nay, thay vì thừa nhận rằng chúng ta phát bệnh bởi thuốc độc của họ. Họ đã thành công rồi đó Giống gà này thì có thịt chắc nịch hơn bất kì con gà ta nào bạn có thể tìm được, và đó là một dấu hiệu tốt. Đó là do hầu hết các giống gà của Mỹ đều được ăn Asen ngay từ lúc mới sinh. Những giống gà bị nhiễm độc thì tư khắc chúng sẽ béo, chẳng cần biết chúng ăn uống ra sao, cứ như thế thôi là chúng đã được bán với cái giá cao hơn. Cái quá trình kinh khủng này đã được FDA thông qua vào năm 1944, và đó là chuyện “bình thường” Bạn có nhận được cái khuyến cáo lượng Asen mỗi ngày là bao nhiêu chưa? Nơi nào trong cái bao tử của bạn bị rối loạn, nơi đó luôn có hoạt tính phóng xạ pepto. Bismuth luôn có hoạt tính phóng xạ.

* Chiến trường 

Khi mà các bác sĩ tiến hành đình công ở Israel vào năm 1983, và thêm một lần nữa vào năm 2000, con số ca tử vong đã giảm xuống còn 50%. Năm 1976, số lượng các ca tử vong ở Los Angeles giảm 18%, khi các bác sĩ L.A. tiến hành đình công trong vòng 1 tháng. Kiểu hình các bác sĩ đình công như thế này đã được nhân rộng gấp 5 lần trên toàn thế giới.
Con số tử vong bởi thuốc và các phương pháp điều trị ung thư hàng năm vượt ra ngoài con số tử vong bởi chiến tranh trong lịch sử nước Mỹ.
Theo lần ghi nhận gần đây nhất trong dữ liệu điều tra dân số Hoa Kỳ (2005), ung thư là 2 nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở Mỹ, chỉ trước các tác dụng phụ của thuốc một chút.
Tiền công nghiệp hóa và tỷ lệ ung thư ở thời điểm hiện tại: cứ 25 người thì có 1 người chết vì ung thư vào năm 1900. Hiện nay, cứ 4 người thì có 1 người chết vì ung thư, phần lớn các ca tử vong là do thuốc. 41% người Mỹ sớm muộn gì cũng sẽ bị chẩn đoán là mắc bệnh ung thư. Hầu hết những người Mỹ đang vào giai đoạn tiền ung thư, đều được chẩn đoán là bị nhiễm toan.
Liệu pháp hóa trị và xạ trị được cho là phương pháp điều trị ung thư khoa học nhất. Tuy nhiên, những con số khoa học đó chẳng ăn khớp gì với nhau.
Tính trung bình, Liệu pháp hóa trị và xạ trị chỉ có hiệu quả 4-5% trong cả một quá trình phục hồi dai dẳng. 100% quá trình điều trị đều độc hại.
Cụm từ “điều trị thành công” được các bác sĩ chuyên khoa ung thư và y văn định nghĩa, tức là không có các khối u (chẳng có tí dính dáng gì đến ung thư) trong vòng 5 năm, và họ tiếp tục đếm con số bệnh nhân ‘sống sót’, dù cho 6 năm sau là những người này có chết đi chăng nữa, những con số này tiếp tục được họ xào nấu thành tỷ lệ chữa bệnh của mình. Đây là một trong những cách mà khoa học điều chế cho ra đúng thuốc khớp với những con số của mình.
“Những nghiên cứu của tôi chỉ ra rằng, những bệnh nhân ung thư không điều trị sống lâu hơn gấp 4 lần những bệnh nhân điều trị. Đối với các loại ung thư điển hình, thì người từ chối điều trị có thể sống giao động trong vòng từ 12 năm rưỡi. Còn những ai chấp nhận phẫu thuật, hay các phương pháp trị liệu khác [hóa trị, xạ trị, cobalt] chỉ có một mức trung bình là 3 năm.” -Tiến sĩ Hardin Jones, bộ môn sinh lý học, đại học California, Berkeley. Số ca trẻ em được chữa khỏi chứng Hodgkin thì cứ hơn 18 ca là có khả năng phát triển các hậu chứng thứ cấp của khối u ác tính. Các rũi ro về bệnh bạch cầu tăng đáng kể từ sau 4 năm phương pháp điều trị thành công kết thúc, và đạt sự ổn định sau 14 năm, nhưng nguy cơ tái phát triển các dạng u đặc vẫn giữ nguyên ở mức cao và đạt ở mức 30% trong vòng 30 năm. - Tạp chí y học New England
Ung thư bùng phát dạng thứ cấp bị gây ra bởi phương pháp điều trị chết người và kinh hoàng hơn nhiều so với loại ung thư ban đầu.
Tất cả những phương pháp điều trị hạt nhân và hóa trị được biết là căn nguyên gây ra và di căn ung thư. Những phương pháp vô lý này được gọi là “biết được mặt trái của hiệu quả”. Động thái sàng lọc để phân loại ung thư cũng cùng một kiểu với phương pháp điều trị, đưa ra càng nhiều trường hợp bệnh nhân nhiễm phóng xạ và các độc chất công nghiệp càng tốt. Đây là lý do mà con số mắc bệnh ung thư vú bùng phát cùng với sư gia tăng những thử nghiệm chụp nhũ ảnh.
Trường hợp tử vong do điều trị (tử vong do bác sĩ điều trị) đứng thứ 3 trong những nguyên nhân tử vong hàng đầu tại Mỹ trích từ thống kê riêng của các tổ chức y tế. Cái chết bởi thầy thuốc bình thường tới nỗi người ta đã gói gọn nó trong một từ ‘iatrogenic’- do thầy thuốc.
Các cô gái phải trải qua hóa và xạ trị phải đối diện với nguy cơ 35% nguy cơ mắc bệnh ung thư vú vào độ tuổi 40, 75% là điều này sẽ xảy ra cao hơn cái mức trung bình 35% kia. Bức xạ quang tuyến vú cũng sản sinh ra các loại ung thư, đặc biệt là ở vùng ngực.
“Một nghiên cứu với hơn 10.000 bệnh nhân cho thấy rõ ràng rằng chỉ định hóa trị mạnh cho chứng Hodgkin (u hạch bạch huyết) được ghi nhận trong hồ sơ bệnh án thực là trò lừa bịp. Những bệnh nhân trải qua hóa trị, có hơn 14% phát triển các bệnh bạch cầu và hơn 6% phát triển ung thư các cơ xương khớp gấp hiều lần những bệnh nhân không phải trải qua hóa trị liệu - Tiến sĩ-Bác Sĩ y khoa John Diamond
“Chemo-brain” hóa trị gây suy giảm chức năng nhận thức của não, sử dụng loại liệu pháp hóa trị liên quan đến hệ thần kinh vĩnh viễn là một thách thức tinh thần to lớn cho bệnh nhân. Có vô số các loại thuốc mà bác sĩ có thể kê toa để bạn mua (nhằm duy trì nửa phần đời còn lại của bạn), để ‘điều trị’ và ‘quản lý’ tâm trí của bạn.
“Nếu một bệnh nhân bị u não đang được chỉ định điều trị bằng xạ trị hay hóa trị liệu pháp, chỉ có mỗi một câu hỏi duy nhất được đặt ra, “Làm cách nào mà khối u có thể hoạt động được?” Không một ai đặt câu hỏi đó với bệnh nhân. Trong quá trình đào tạo y khoa của mình, tôi đã nhớ rất rõ những bệnh nhân đang trải qua quá trình xạ trị hay hóa trị. Khối u sẽ càng ngày càng nhỏ, tình hình sức khỏe bệnh nhân sẽ càng ngày càng tệ hơn. Khi khám nghiệm tử thi các bác sĩ sẽ reo lên, “Thật là thần kỳ! Khối u đã biến mất! Vâng, đúng thế, nhưng làm ơn đi, đây là bệnh nhân.” - Tiến sĩ Philip Binzel
TIến sĩ Ewan Cameran, đã 2 lần đoạt giải Nobel, chiến thắng một nghiên cứu của Linus Pauling ở Scotland (mà nghiên cứu của Linus sau này đã được nhân rộng trên các nghiên cứu tại Canada và Nhật Bản), bằng so sánh giữa việc điều trị vitamin C với hóa trị liệu.
Đoán thử xem, nhóm bệnh nhân này sẽ sống dai hơn thời gian trung bình của các bệnh nhân ung thư là bao lâu? Và số bệnh nhân trong nhóm này là bao nhiêu?
Vitamin C giúp kéo dài tuổi thọ trung bình của các bệnh nhân ung thư lên gấp 6 lần, và đương nhiên cũng làm chất lượng đời sống của họ tốt hơn. Có một sự khác biệt so với thực tế là Vitamin C tăng cường hệ thống miễn dịch, thay vì làm suy yếu nó hơn như hóa trị đã làm.
“Là một nhà hóa học được đào tạo để giải thích dữ liệu, thông tin này khiến tôi khó mà chấp nhận rằng các bác sĩ đã bác bỏ bằng chứng rõ ràng rằng càng hóa trị bao nhiêu, càng hại nhiều hơn là lợi.” -- TIến sĩ Alan Nixon, cựu chủ tịch của hiệp hội hóa học Hoa Kỳ.
Hóa trị liệu cho ung thư da (ung thư da còn được biết như “viêm da do bức xạ”) “Những người [mắc ung thư hạch bạch huyết] còn sống sót thường là 11% trên tổng các số ca tử vong, mặc dù con số này đã giảm trong những năm qua, nó vẫn còn cao gấp 3 lần dự kiến con số chẩn đoán ban đầu của họ trong vòng 45 năm trở lại đây.” - Reuters New Service
Bệnh nhân ung thư đều có nguy cơ tử vong do nhiễm trùng máu bất kỳ lúc nào, điều đó là hiển nhiên vì hóa trị liệu đã phá hủy hoàn toàn hệ thống miễn dịch của bệnh nhân, và do đó vi khuẩn đã từ đó dễ dàng xâm nhập và giết chết bệnh nhân. Thông thường thì những trường hợp như thế này lại được tính là “tử vong do nhiễm trùng máu” thay vì là tử vong do ung thư. Đó là một phương cách khác để hội đồng y tế thao túng các số liệu thống kê về sự an toàn và hiệu quả của hóa trị và xạ trị liệu pháp.
Sự biện minh tương tự cũng được áp dụng thành những ca tử vong do viêm phổi, loạn nhịp tim, và tiểu đường để thay cho nguyên nhân thực sự được gây ra bởi các tia phóng xạ và thuốc chống ung thư.
Ngành công nghiệp hóa dầu và ngành y tế công cộng đã cùng hợp tác với nhau để trở thành cơ quan ngôn luận của chính phủ, ra sức thuyết phục chúng ta rằng ánh sáng mặt trời là một loại tiền tố ung thư.
Ánh sáng mặt trời sản sinh ra vitamin D nhờ có cholesterol có trong da, nó bỏ bớt sự dư thừa cholesterol. Quan trọng hơn nữa là vitamin D (được tạo ra từ ánh sáng mặt trời) làm giàm đi 70% các bệnh ung thư, trong đó có cả ung thư da.
Người ta có tỷ lệ hấp thụ ánh nắng mặt trời cao hơn khi họ sử dụng kem chống nắng. Đôi khi các thành phần trong kem chống nắng còn tự sinh ra các đồng phân có độc tính, gây ung thư khi có xúc tác ánh sáng. Nếu không, chúng sẽ bao gồm những thành phần có khả năng tích tụ gây ung thư như Oxide Kẽm, Titan Dioxide, và nhôm hydroxide.
Các công ty hóa chất đã tạo ra vấn đề, để họ có thể kinh doanh trên chúng ta bằng giải pháp của riêng họ. Các giải pháp phòng tránh mà họ nói chỉ đơn giản là không để lộ ra thứ chất độc mà họ đang kinh doanh.Tiếng nói của họ vô cùng mạnh mẽ trên các kênh truyền thông đại chúng, cho nên họ mặc nhiên có thể đổ lỗi những bệnh tật đã gây ra cho chúng ta là do mặt trời. Chứng thiếu hụt vitamin D rất là phổ biến hiện nay, chứng minh rằng mọi người đã không nhận được đủ ánh sáng mặt trời.
Chỉ có ung thư da là trở thành vấn đề lớn vào giữa thế kỷ 20, sau khi kem chống nắng ra đời, cũng như cái cách mà ung thư vú bùng phát khi phương pháp chụp nhũ ảnh ra đời. Nuôi con bằng sữa mẹ chẳng hạn, đâu phải chỉ có mỗi chụp quang tuyến vú là cách chắn chắn nhất để phòng ngừa ung thư. Trong khi thực tế, ung thư chỉ được biết như là “căn bệnh của nữ tu”.
Điều đó ước tính rằng chỉ có 10-20% các chẩn đoán và điều trị lâm sàng là được chứng minh rằng nó có hiệu quả bằng những thử nghiệm đã được kiểm soát.
- Văn phòng của chương trình đánh giá và báo cáo về công nghệ y tế lên Hội đồng Thượng nghị viện Mỹ, năm 1978.
Thời gian trung bình đã dự kiến để chữa bệnh thường được kéo dài thêm 4% trên tổng số quá trình (đó là chưa tính trong vòng 5 năm trở lại đây họ đã dung những tinh đồn để gian lận các thông số chữa trị) Vì vậy, với lượng độc tố trong các “phương pháp điều trị quy chuẩn”, thì có khoảng 96% khả năng là phương pháp điều trị sẽ giết bạn, nhiều hơn là căn bệnh ung thư sẽ giết chết bạn. 

* Hệ thống 

“Bạn sẽ không tin nổi số lượng nhân viên của FDA hay người quen của họ đến gặp tôi ngang ngửa với số bệnh nhân ở Hanover đâu! Bạn không thể nào tin nỗi điều này! Không FDA thì cũng là giám đốc của AMA, ACA hay người đứng đầu các viện ung thư chính quy.” - Trình dược viên Hans Nieper, bào chế dược phẩm
“Điểm mấu chốt là các hệ thống y tế là nó được chi phối bởi các nhà tài phiệt để phục vụ cho các mục đích tài chính. Bạn chẳng có ai để phục vụ trừ khi có người bị bệnh, toàn bộ hệ thống y tế được thiết kế để làm con người càng ngày càng bệnh tật nhiều hơn.”
- Trình dược viên, tiến sĩ Guylain Lanctor, tác giả của 'The Medical Mafia: How to Get Out of It Alive and Take Back Our Health & Wealth'
Ngành dược đã được bắt đầu tẩy não (nhồi sọ) khi còn rất sớm
Loại quảng cáo được Ritalin sử dụng có tên là “hội chứng khi mẹ mệt mỏi”, trước khi A.D.D phanh phui nó là một hình thức mua bán “rẻ tiền” của Ritalin.
Ngày xưa, nhiều phim hoạt hình của trẻ em diễn tả rau củ là một hình thức làm tăng thể lực và sức mạnh siêu nhiên.
Thứ quyền năng đặc biệt này trở thành phương tiện để tự bảo vệ chính mình và mọi người, chứ bản thân nó lại chẳng phải là loại phương tiện nào.
Các nhân vật trong hoạt hình và trò chơi miễn nhiễm với các loại độc, chất nổ và tia phóng xạ. Mà những thứ như thế là vũ khí của kẻ ác, và kẻ ác tới giờ vẫn còn sử dụng những cách thức đó.
Với ngành giải trí cho các thiếu nhi thời đại này, thì hóa chất và phóng xạ cung cấp siêu năng lực. Phẩm chất của đạo đức và sức khỏe đã trở nên lỗi thời rồi.
Tốt hơn trên cả các loại hóa chất, đặc biệt có các hóa chất có hoạt tính phóng xạ. Ngành công nghiệp hạt nhân và hóa dầu hiện tại là nguồn gốc của năng lượng chống lại tự nhiên, và đột biến gene lại được xem như là một điều gì đó thật tuyệt vời, góp phần phát triển công nghệ sinh học.
Ai đã nhìn thấy mấy cái mô hình chưa? Mấy cái mô hình đó bây giờ thế nào rồi? Ngay chính lúc này? Và, đương nhiên, hãy ở đó mà chờ cho đến khi chúng trở nên cũ rích… Muốn biết thế nào là tham nhũng thì cần phải có kiến thức về Cục Quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ, những cộng sự và lịch sử tăm tối của Cục.“AI nắm giữ quá khứ sẽ kiểm soát tương lai. Ai nắm giữ hiện tại sẽ tóm gọn quá khứ” - George Orwell’s “1984”
Cục quản lý thuốc và thực phẩm (F.D.A) lúc mới bắt đầu thành lập chỉ là một cơ quan quản lý hóa chất, thời gian sau được gọi là Cục quản lý hóa chất, mãi về sau mới đổi tên thành F.D.A.
Cái tên đã được thay đổi để bưng bít các dự án hóa chất công nghiệp.
Cơ quan này cấp cho các công ty một tư cách pháp lý để đưa hóa chất vào thực phẩm, các hãng dược phẩm nào được FDA “thông qua”, những hãng này có từ bỏ đạo đức thì cũng không vi phạm pháp luật quy định cho ngành công nghiệp hóa chất được.
Nguồn gốc các hóa chất từ Cục quản lý hóa chất, năm 1909 – mà sau này trở thành FDA.
Trên đó là công việc thực sự của họ, và nó là “thông qua” và xử phạt những sản phẩm thuộc ngành công nghiệp hóa chất, và họ bưng bít một cách hợp pháp cho những hóa chất trong ngành công nghiệp này bằng cách…tuyên bố cái gì mới là “an toàn”.
Họ đều đặn chia sẻ những dữ liệu được bảo mật với các nghiệp đoàn hóa học cộng sự để làm giảm nhẹ trách nhiệm. Ví dụ, những thông tin ô nhiễm mà họ đã ém nhẹm trước công chúng. Đây là những vấn đề trong “quan hệ công chúng”
Một trường hợp công ty hóa chất được “FDA thông qua” đã may mắn thắng vụ kiện 1 tỷ dollar tại tòa án Mỹ, và đã trình một G.R.A.S (Chứng nhận an toàn chung) trong tình trạng an toàn được bảo mật. Đây là lá chắn cho các nghiệp đoàn hóa chất, và cho họ cái quyền bào chữa chính đáng.
Mô hình F.D.A hiện đại hơn được tiến hành vào năm 1913- trong cùng một năm thành lập ra quỹ Rockefeller. Tay nắm tay, FDA - Quỹ Rokefeller và Hiệp hội y tế Hoa Kỳ, cùng nhau hoạt động sát cánh. Quỹ Rockefeller được thành lập vào năm 1913, với mục đích trọng yếu là nhắm vào các hoạt động y tế và đào tạo y khoa.
Tài trợ ban đầu của Rokefeller cho trường y đạt trên 550.000.000 dollar. Chỉ trong năm 1928, Quỹ Rokefeller đã tài trợ tiền cho 18 trường y trên khắp 14 quốc gia.
Những cộng sự của Rokefeller tại FDA đã bắt đầu thúc đẩy cuộc cạnh tranh khốc liệt về các loại thuốc ức chế với ngành công nghiệp hóa chất.
“Tôi sẽ không đời nào công nhận mọi loại thuốc mới đến từ bất kỳ các nghiệp đoàn hóa chất tư nhân nào, trừ phi loại thuốc ấy đến từ một hãng dược khổng lồ với những nguồn tài chính vô hạn. - Tiến sĩ Richard J.Crout, giám đốc của chi cục quản lý thuốc của FDA (Spotlight, 18 tháng 1, 1982)
Các loại thảo dược có tác dụng ức chế là thứ mà ngành công nghiệp của họ không thể kiểm soát, và độc quyền bằng tấm bằng sáng chế “thuốc” (hóa chất). Tự nhiên chẳng bao giờ cần được cấp bằng sáng chế cả. Đó là lý do tại sao tất cả các liệu pháp thiên nhiên và không gây độc hại hiển nhiên trở thành một loại “thủ đoạn” khác của FDA, nghiệp đoàn hóa chất, và các đơn vị y tế.
Chỉ có những hóa chất trái với tự nhiên (như phi hữu cơ và chất độc) là có thể được cấp bằng sáng chế, và những loại thuốc không chứa độc tố là một mối đe dọa trong việc kinh doanh thuốc men.
“FDA bảo vệ các tập đoàn dược phẩm lớn, và sau đó nhận được khen thưởng, và sử dụng quyền lực của một tổ chức chính phủ, họ bắt giữ những mối nguy hại lên các hãng dược lớn. Người người nghĩ rằng FDA đang bảo vệ họ. Nhưng không. FDA nào có làm thế, điều mà họ đang thực hiện trái ngược hoàn toàn so với những gì dân chúng có thể hình dung, sự trái ngược đó như là ngày với đêm vậy.” - Tiến sĩ Herbert Ley, Former Commissioner of FDA
“Vào năm 1919, việc Rockefeller trao tặng một số trường y ở Canada 5.000.000 dollar đã góp phần làm nên nền giáo dục y khoa Canada đến tận thế kỷ 20 - McGill University Press
Y học thời đó làm gì có cái thị trường sinh ra lợi lộc như bây giờ, thế nên các trường y đã phải nương nhờ vào các khoản viện trợ của Rockefeller dành cho những trường đào tạo đạt yêu cầu.
Rockefeller yêu cầu tuân thủ các quy định từ bỏ các thể loại y học truyền thống và các dược liệu tự nhiên, thay vào đó là một thế hệ mới của các dẫn xuất hóa dầu trong các sản phẩm thuốc, và thiêu rụi toàn bộ ghi nhận bởi thư viện của quá khứ. Điều gì đã xảy ra mà đã khơi mào cho nạn đốt sách ở khắp nơi, và trong một vài trường hợp, chính FDA đã thiêu hủy sách. Đó là thời điểm làm nguy hại đến các phương pháp trị liệu tự nhiên truyền thống (ngành công nghiệp không khói) của các bác sĩ.
Tất cả những ai bất đồng chính kiến đã từng dành thời gian đề thử nghiệm trên toàn phương diện của các liệu pháp thiên nhiên để chữa lành bệnh, từ nay sẽ được xem như bị quỷ ám, một dạng “lang băm” trong hệ thống đào tạo y khoa chính quy.
Dù cho đó có là những “lang băm” đoạt giải Nobel y học, và kết quả thu được sâu rộng đến chừng nào. Đây là chiến lược cây gậy và củ cà rốt. Trường học đạt yêu cầu sẽ được đưa ra trước mặt củ cà rốt (tiền của Rockfeller). Các bác sĩ truyền tay nhau cái cây gậy (cảnh sát cơ động của FDA). Một số bác sĩ đã phải rục xương trong tù vì đã chữa lành bệnh nhân với loại thuốc “không được thông qua kiểm nghiệm”. Điều đó vẫn cứ xảy ra cho đến giờ…
Tại các cửa hàng mua bán thực phẩm hữu cơ (không chứa hóa chất công nghiệp)… Có các vitamin hay sữa tươi có thể thực sự tiêu diệt các tế bào ung thư. Điều đó có nghĩa là chẳng cần phải có các bác sĩ với những phương pháp chữa bệnh nào nữa. Thực dưỡng là bất hợp lý, dù bằng cách này hay cách khác vì chẳng có một phương pháp thực dưỡng nào được “thông qua” cả. Phương pháp chữa bệnh có nghĩa là vô tư - không bị ràng buộc bởi các chất hóa học: tự do hay không là do họ quyết định.
Một mối quan hệ bất chính được hình thành giữa hiệp hội y học Hoa Kỳ, FDA, và Quỹ Rockefeller. Để đảm bảo các trường y được lựa chọn tuân thủ theo, các thành viên trong ban giám đốc điều hành của quỹ Rockefeller thường xuyên nhấn mạnh và nhắc nhở lại các quy tắc. Ủy ban giáo dục chung của quỹ Rockefeller, được thành lập năm 1914, cam kết sẽ chi 500.000 dollar cho phía trường đại học, sau tăng lên 1 triệu rưỡi dollar vào ngày 1 tháng 1 năm 1916, và chịu chi lương cho các bài giảng lâm sàng của giảng viên [chỉ có các vị có học vị chính quy mới được hưởng mức ưu đãi này]. Bằng tiền của Brady và hy vọng nhận được từ tài trợ của GEB, bệnh viện và công ty cổ phần Yale đã ký kết hợp đồng sát nhập trước kỳ hạn là vào ngày 1 tháng 7 năm 1914 của bệnh viện. - Web Site của khoa Y – đại học Yale
Y học kiểu mới có những khả năng pháp lý độc quyền, cùng song hành với độc quyền ở lĩnh vực công nghiệp hóa dầu của Rockefeller trong quá khứ. Thay vì chỉ sở hữu tất cả các nguồn dầu khí, đế chế Rockefeller hiện nay đã kiểm soát hầu hết tất cả các loại thuốc men tiêu dung. Y sở hữu vị chúa sơn lâm được gọi là “công nghiệp dược phẩm” trong thị phần ngành công nghiệp hóa chất.
Lại một lần nữa, thuốc men sẽ được kiểm tra và phân phối đến cư dân Mỹ, Các chi nhánh trên toàn thế giới rồi cũng sẽ nhận được như thế. Suốt cả cuộc đời, quý ngài John D. Rockefeller đã từ chối bãi nhiệm chức vị của mình trong ngành y không biết bao nhiêu lần. Nhưng cả đời ngài lại sử dụng những phương pháp toàn diện của y học truyền thống cho mục đích sức khỏe của chính mình. Nhiều người bạn của ngài tại FDA và AMA cũng cùng một kiểu như thế. Sau khi quyền điều hành tại các trường y bị chiếm giữ, thì các cuộc thương vong bởi bệnh bại liệt- tim- và ung thư thực sự bùng phát. “Từng có một chuyên gia u não chiễm trệ trong phòng khách của tôi bảo với tôi rằng anh ta sẽ chẳng bao giờ xạ trị nếu như chẳng may y bị u não đi nữa. Và tôi hỏi anh ta rằng, “thế chẳng phải anh vẫn chuyển người ta đến khu xạ trị sao?”. Anh ta điềm nhiên trả lời “ Phải thế thôi, nếu muốn bị tống cổ khỏi bệnh viện thì tôi sẽ không làm điều đó” - Tiến sĩ, bác sĩ Ralph Moss.
90% bác sĩ chuyên khoa ung thư sẽ không bao giờ chỉ định chiếu xạ cho ung thư phổi. 84% sẽ không chỉ định hóa trị cho ung thư ruột kết. - Nghiên cứu của đại học Harvard được công bố tại Mỹ viện sức khỏe quốc tế : “Bất kỳ bác sĩ chuyên khoa ung thư nào cũng sẵn sàng bác bỏ các liệu pháp kháng ung thư”
Big Pharma bắt đầu gửi những món quà đến trường y, và càng về sau sự nghiệp của sinh viên thì những món quà này càng lớn hơn. Các bác sĩ chuyên khoa khác chỉ đơn giản là viết toa thuốc, nhưng riêng bác sĩ chuyên khoa ung bước [bác sĩ gây ung thư] hầu hết đều thu mua các loại thuốc trên thị trường, và kiêm luôn người bán chúng cho bệnh nhân với giá trên trời. Họ cho bệnh nhân biết rằng những người này sẽ chết nếu không có thuốc. - NBC Nightly News story, các bác sĩ khoa ung thư thu lợi nhuận từ các thuốc hóa trị liệu.
“Phần lớn bệnh nhân mắc bệnh ung thư ở đất nước này chết vì hóa trị. Liệu pháp hóa trị không loại bỏ tuyến vú cho ung thư vú, cho ung thư đại tràng hay ung thư phổi. Sự thực này đã được ghi nhận trong hơn 1 thập kỷ qua, nhưng các bác sĩ vẫn áp dụng hóa trị đối với những khối u loại này. Nữ giới bị ung thư vú có nguy cơ chết nhanh hơn là không có hóa trị.” - TIến sĩ, bác sĩ y khoa Alan Levin
“Hiệp hội ung thư Hoa Kỳ đã cố gắng hủy đi nền tảng nghiên cứu của tôi”. - Tiến sĩ Albert Szent-Gyorgyi, người nghiên cứu những đột phá của vitamin C, người chiến thắng giải Nobel Y học năm 1937
Đoán thử xem khi nào tổ chức này được thành lập và bởi ai. Tổ chức này được thành lập bởi John. D. Rockefeller Jr., trong phép màu của năm 1931, cùng thời điểm “hiến tặng” ở đại học Havard. Bạn có tin nổi một ngày đẹp trời nào đó học sẽ công bố phương pháp chữa bệnh, và vứt bỏ chiếc xe tải chất hàng đống tiền của mình không? Câu trả lời hợp lý hơn sẽ là vitamin C đã đe dọa đến sứ mệnh của họ. Niềm tin của chúng ta được dẫn dắt đến “kỳ tích” của nền y học hiện đại, là sự vượt trội hơn so với các loại thảo dược truyền thống. Thứ mà họ không đề cập đến nằm ở khoảng từ 50-70% thành phần của thuốc hóa trị được lấy từ “cỏ dại”. Bao gồm các hợp chất hữu cơ, là lý do tại sao một số loại thuốc đôi khi lại có hiệu quả. Theo ghi nhận từ Ủy ban điều tra dân số Hoa Kỳ, Ung thư là sát thủ đứng thứ 2 ở nước Mỹ, nhưng hầu hết những ca tử vong là do phương pháp điều trị, chứ không phải bệnh ung thư. Các loại dược phẩm là kẻ giết người đứng thứ 4. Nước Mỹ sở hữu một hệ thống y tế nguy hiểm và đắt tiền nhất thế giới. Hệ thống này làm ra 60% tất cả các vụ phá sản. “Không chỉ có một, mà còn rất là nhiều những phương pháp chữa trị cho bệnh ung thư. Nhưng tất cả những phương pháp còn lại đều bị ACS, NCI và các trung tâm ung thư lớn đàn áp. Bởi hiện tại họ đang có quá nhiều lợi nhuận trong chuyện này”. - Tiến sĩ, bác sĩ y khoa, cha đẻ của “chế độ ăn kiêng Atkins”.

* Điều trị bệnh ung thư 

Bất chấp những nhà sáng lập Các phương pháp chữa trị được trích dẫn trong bộ phim này không chịu trách nhiệm riêng cho bất kỳ cá nhân hay tình huống đặc biệt nào, nhưng tỷ lệ cuộc sống khỏe mạnh dài hạn cùng với chất lượng và năng lực là cao hơn khi đặt kế những phương pháp này cạnh những liệu pháp điều trị hiện đại thường quy. Trong các toa thuốc chính thống được kê cho bệnh ung thư, phần lớn là các tên thuốc làm nên một cái chết vô vọng chỉ trong một câu văn.
Đầu tiên và quan trọng nhất, ung thư không phải là bùng phát các khối u. Chúng ta biết rằng cơ sở để xử lý các khối u là như nhau, nhưng nó sẽ làm lãng phí thời gian và chẳng đi đến đâu cả. Cuộc gỡ bác sĩ Otto Warburg, một trong những nhân vật quan trọng nhất, khi ông còn sống.
Hồi ức về bác sĩ Otto Warburg
Vào năm 1931, bác sĩ Otto Warburg đã được trao giải Nobel về y học. Kể từ đó trở đi, những nghiên cứu của ông đã bị các nhà sáng lập y tế chặn đứng đến dư luận rất thành công, để đảm bảo rằng chỉ có ông hay những nhà điều chế thuốc từng tiếp cận với chúng biết đến.
Khám phá của Warburg là một trong những thành tựu lớn nhất của nhân loại, nó chẳng như những chủ đề được thông báo đến các bạn. Các nhà sáng lập thậm chí còn chẳng đề cập nó ở các trường y, ngoại trừ trong mấy lời mỉa mai và hời hợt để làm kiểng.
Tiến sĩ Warburg khám phá ra rằng các tế bào ung thư chỉ phát triển mạnh trong môi trường thiếu vắng oxy, trong khi tế bào bình thường nào mà chẳng cần oxy. Ông phát hiện rằng tồn tại một trường hợp mà các tế bào ung thư bị nhiễm độc có tiếp xúc với oxy. Ông nhận ra rằng các tế bào ung thư bị đột biến không nhận năng lượng từ hô hấp, nhưng thay vào đó là năng lượng được rút ra từ quá trình lên men lượng đường trong máu.
Hơn nữa, Warburg còn nhận thấy rằng cơ thể càng có nồng độ pH thấp (môi trường acid) thì nguy cơ ung thư càng cao, vì cơ thể có nồng độ pH thấp đồng nghĩa là phải tăng cường hệ miễn dịch cho hoạt động hấp thụ oxy (*chú thích: tức nồng độ oxy trong máu sẽ giảm khi độ pH giảm do quá trình hô hấp hiếu khí của chu trình Krebs).
Những ai có nồng độ pH cao (tốt nhất là hơn 7.4) không bao giờ mắc bệnh ung thư, và nồng độ oxy trong máu của họ lúc nào cũng cao.
Tất cả những căn bệnh ung thư bất chấp là nó thuộc hạng mục phân loại nào, thì cũng nhanh chóng bị tiêu diệt ở bất kì cơ thể nào có pH vượt quá 8.5. Phần lớn các tác nhân gây bệnh khác cũng bị tiêu diệt theo.
Bệnh nhân ung thư thường xuyên có độ pH từ 4-5, và chỉ đo được ½ lượng oxy hít vào trong máu của họ. Ung thư thì không tương thích với một môi trường pH lành mạnh là trong máu chứa đầy đủ lượng oxy. Một ví dụ khác là trường hợp ung thư ở tim hầu như không thể tồn tại, bởi vì trong lượng máu chảy từ phổi vào tim có nồng độ pH và oxy là cao nhất trong toàn bộ cơ thể.
Người khỏe mạnh có nồng độ oxy bão hòa trong máu từ 98-100, được đo bằng thiết bị đo nồng độ oxy trong máu, trong khi mức đo được hiển thị của bệnh nhân ung thư thường xuyên trong khoảng 60.
Oxy trong cơ thể của bệnh nhân ung thư được thay thế bằng các chất thải, chẳng hạn như carbon dioxide, làm tăng thêm hoạt động của các độc tố và giàm thiểu oxy, điều đó khiến cho đến lượt của môi trường acid làm nên một loạt biểu hiện bệnh khác.
“Trong năm 1964, cứ 214 người thì chỉ có 1 người mắc bệnh ung thư. Ngày nay, thì cứ 3 nữ là có 1 người bị và cứ 2 nam là có 1 người bị. Yếu tố quyết định giữa sức khỏe và bệnh tật là độ pH. Điều này chẳng phải là không được phổ biết khi mà trung bình các cuộc kiểm tra của người Mỹ nằm ở khoảng pH 4.0 và pH 5.0.” - Keiichi Morishita, tác giả của “sự thật bị ẩn giấu của bệnh ung thư”
Dựa trên những phát hiện này, cơ sở lý thuyết của bác sĩ Warburg là bản chất của bệnh ung thư là một loại cơ chế sinh tồn của cơ thể.
Khi nồng độ oxy giảm đến mức thấp (chèn ép nội tạng), các tế bào phải được chuyển hóa thành dạng tế bào khác để có thể sinh tồn được trong quá trình lên men, để ngăn chặn hoại tử lan ra toàn bộ các khu vực khác của cơ thể.
Nói cách khác, nếu không có ung thư thì mọi người sẽ bị bệnh nặng hơn và sớm từ giã cõi đời này hơn rồi, nó chỉ là một cơ chế bảo vệ tự nhiên.
Điều này cũng được khám phá, và xác nhận bởi trên 3 trường phái nghiên cứu tổng quát trên một cơ thể có chỉ số pH mang xu hướng nghiêng về phía môi trường acid nhiều hơn (gây ra bệnh ung thư), bằng chế độ ăn nghèo dinh dưỡng, nhiễm độc kim loại nặng, dược phẩm, cảm xúc căng thẳng, mất nước, bệnh tật, thành phần muối biển suy giảm, thiếu hụt khoáng chất, dầu ăn tổng hợp, chất béo tổng hợp, chế độ ăn thiếu chất béo, đường tinh luyện và carbohydrate tinh luyện.
Nghiên cứu trên cho thấy rằng, chỉ ngành công nghiệp ung thư sở hữu riêng các thống kê y học- chứng minh rằng hóa trị liệu cũng như xạ trị kéo dài mãi bệnh ung thư. Trong đó, cắt bỏ khối u là phương pháp điều trị nguy hiểm nhất trong tất cả. Chất độc, phóng xạ và nhiễm toan là bộ ba xấu xa của căn bệnh ung thư. Điều này đã được chứng minh từ năm 1931. Đây là lý do tại sao liệu pháp “phòng ngừa” được chỉ định như là hoạt chất phóng xạ chụp quang tuyến vú thực sự gây ra bệnh ung thư.
Đó cũng là lý do vì sao càng nhiều chỉ định “phát hiện sớm”, càng nhiều những căn bệnh ung thư được “phát hiện”. Tỷ lệ các ca bệnh ung thư (và các ca tử vong) ở phụ nữ hoàn toàn không chụp quang tuyến vú là thấp hơn đáng kể so với được chỉ định. Một số liệu pháp có tỷ lệ thay thế từ 80% đến 90% cho việc điều trị suốt đời, bằng việc sử dụng những phương pháp an toàn và không tốn kém phù hợp với cơ chế hoạt động của cơ thể, thay vì phải chống lại căn bệnh.
Không một yếu tố nào trong số những phương pháp này đòi hỏi phải làm nhiễm độc các bệnh nhân, hay chứa hoạt tính phóng xạ.
Không một phương pháp nào trong số những phương pháp này được cấp bằng sáng chế, được quy định hay được các nghiệp đoàn hóa chất độc quyền.
Tất cả các phương pháp chữa trị ung thư hiệu quả là bất hợp pháp đối với bất kỳ loại quy định nào về quy định khám chữa bệnh tại Hoa Kỳ. Kinh doanh các sản phẩm với mục đích chữa bệnh đại loại như trên là bất hợp pháp, vì không có loại phương pháp nào như thế được “thông qua”. Sẽ chẳng đời nào họ làm thế. Thậm chí nhà sản xuất nào trích dẫn về nó cũng bị xem là bất hợp pháp, dù cho bản thân nhà sản xuất đó được điều hành bởi các nhà sáng lập ngành y chính thống đi chăng nữa. Vì vậy, thông tin, tất cả các mục đích và kiến thức chữa bệnh ung thư thực sự, bị cấm trong thực tế.
Liệu pháp thành công nhất trong điều trị kháng ung thư bắt đầu với chế độ ăn uống, và dinh dưỡng; bởi quy cho cùng, chúng ta thực sự là những gì chúng ta ăn vào. Từ đó, tiết lộ ra những phương pháp khác nhau, nhưng có một nền tảng chung cho những ai nuốt phải rác thải là chẳng còn hy vọng hồi phục sau một cơn chấn động sức khỏe. Tổng quan mà nói thì chế độ ăn uống là quan trọng nhất để xác định nồng độ pH của cơ thể; và kế đó là độ thậm hụt oxy. Nhiễm toan càng được phóng đại hơn nữa do thiếu hụt các khoáng chất quan trọng.
Phần lớn các phương pháp chữa trị ung thư (không dính líu gì đến những phương pháp chữa trị các triệu chứng của bệnh ung thư) bằng cách nào đó mà nó liên quan đến cơ chế tự điều chỉnh độ pH của cơ thể thành môi trường kiềm lý tưởng. Môi trường kiềm làm giàu nồng độ oxy trong máu người. Máu bão hòa oxy thường gây bất lợi trên các tế bào ung thư bị đột biến (quá trình lên men). Khí oxy hiển hiên vô hại đối với các tế bào khỏe mạnh được nuôi dưỡng bằng các hoạt chất chống oxy hóa. Nói lên điều này cũng chỉ để quay trở lại chế độ ăn uống. - Chữa lành bệnh ung thư: Vitamin B17 (laetrile)
“Sau khi trình bày một bài thuyết trình về hiệu quả của vitamin B17 và bệnh ung thư, kính chắn gió xe tôi đã bị bắn rơi thẳng xuống đường về San Francisco. Tối hôm sau, cửa kính sau đuôi xe của tôi bị bắn thủng (cách tiếng nơi tiếng sung đầu tiên nổ ra 300 dặm). Cách sát bảo rằng, ‘có thể ai đó đang cố gắng nói với ông điều gì ‘ ”
- Ernst T. Krebs, người khám phá ra vitamin B17
Vào năm 2007, Khổ hạnh nhân (không phải là loại hạnh nhân ta thường dùng) đã trở thành một bài thuốc tự nhiên thay thế cho vitamin B17 mà các nhà sáng lập các tổ chức y tế tổng hợp. Vào năm 2002, các cửa hàng thực phẩm vì sức khỏe đã phải ngừng bán vitamin B17 dưới hình quả hồ đào, do FDA đã thực hiện những biện pháp cưỡng chế. FDA công khai cấm hạt mơ, và các chiết xuất tự nhiên chứa vitamin B17, bởi vì nó đã thành công trong việc chữa lành bệnh ung thư, được biết qua danh mục “thuốc không được thông qua”. Suốt năm 2002, chính phủ Anh đã sớm thi hành theo, và phương cách thực hiện y chang nhau. Cư dân ở cả hai quốc gia đã bị bắt và buộc tội chỉ vì kinh doanh các quả hồ đào hữu cơ chứa vitamin B17 (laetrile)
“…một báo cáo bác bỏ laetrile (Vitamin B17) được trung ương phát hành vào cuối tháng sáu đã bỏ qua những thí nghiệm cho thấy thảo mộc có thể mang lại hiệu quả trong quá trình điều trị ung thư…” “…có gì đó mờ ám ở đây.”
- New York Times, 24 tháng 7 năm 1997 Sau này, khổ hạnh nhân đã được phát hiện là một nguồn chứa hàm lượng cao loại vitamin này. Vitamin B17 [laetrile] trở nên quý hiếm trong thời đại thực phẩm thiếu dưỡng chất như ngày nay.
Do hiệu quả của nó, các nhà quản lý sẽ không chính thức công nhận vitamin B17 như các loại vitamin hay là vi chất dinh dưỡng khác.
Lý do cho sự bùng nổ sự phổ biến của vitamin B17 và từ đó dẫn đến khổ hạnh nhân, là do trong thực tế vitamin B17 có khả năng bất hoạt các thuộc tính của các tế bào ung thư một cách kỳ diệu và gay cấn như trên màn bạc. Trong khi đó các liệu pháp thay thế thuốc đã đem lại hiệu quả điều trị ung thư và không chất độc hại kể từ năm 1930, loại vitamin mới này thực sự có vẻ ngoài trông giống như một viên đạn ma thuật.Khắp nơi xuất hiện những bài báo cáo tế bào ung thư bị bất hoạt nhờ bệnh nhân đều đặn sử dụng khổ hạnh nhân hằng ngày. Chẳng bao lâu trên thị trường xuất hiện những viên nang chiết xuất từ Khổ hạnh nhân, khiến việc bệnh nhân sử dụng thảo dược không chứa độc tố giá rẻ hàng ngày ảnh hưởng đã ảnh hưởng không tốt cho ngành công nghiệp dược phẩm. Làm hao hụt của họ hàng trăm tỷ dollar.
Ẩn chứa bên trong viên nang vitamin B17 là một lượng nhỏ cyanide trung hòa được giữ lại bằng chính thành phần chính của nó – vitamin B17
Khi vitamin B17 tiếp xúc với các tế bào ung thư, cyanide kéo giảm “tải trọng (kích thước và trọng lượng)” của các tế bào này: đặc biệt là khả năng nhắm xác đích các tế bào của chúng.
Cũng không biết chính xác lý do vì sao loại phản ứng này tồn tại, hay cơ chế nào khiến kích thước và trọng lượng của tế bào ung thư có thể gây chết người.
Vào tháng 9 năm 2007, trong suốt một thời đại hoàng kim của phương pháp chữa trị bằng vitamin B17, FDA đã điều chế hạnh nhân tươi có chứa 2 chủng loại vi khuẩn salmonella-đã từng bùng phát trong 5 năm về trước, và tất cả hạnh nhân các loại cần phải được tiệt trùng, vì lý do đó mà đột nhiên hạnh nhân trở thành một mối đe dọa thảm khốc đến sức khỏe của quốc gia.
Việc tiệt trùng bắt buộc chỉ làm biến đổi hoạt tính của hạnh nhân. Khiến cho hoạt tính của vitamin B17 trong hạnh nhân đắng bị vô hiệu hóa, đó chỉ là kế hoạch đã được FDA sắp xếp. Khổ hạnh nhân là nguồn giàu vitamin B17 nhất, đã chính thức bị cầm lưu hành ở Mỹ vào năm 1995.
Các bác sĩ nào có chỉ định lartrile cho bệnh nhân đều nhận được yêu cầu bị giám sát và bản thân phải viết báo cáo từ FDA.
Nó phải được liệt vào danh sách hàng cấm- để bảo vệ công dân Mỹ.
Nếu bạn thấy bất kỳ loại hạnh nhân nào được dán nhãn “tươi”, sau đó bạn có thể chắc chắn rằng hãng sản xuất đang bịp bợm, và hành động phi đạo đức.
Do sự can thiệp của FDA, hầu hết các loại hạnh nhân ở Mỹ đều được tiệt trùng bằng propylene oxide. Propylen oxide được biết đến như là một loại hoạt chất gây ung thư. Nó nẳm trong đề mục thứ 65 trong danh sách các hóa chất cùng một lúc gây bệnh ung thư và tác hại đến khả năng sinh sản tại California. Trong ảnh: Nhà máy BASF sản xuất propylene oxide.
Phần lớn thành phần mang giá trị dinh dưỡng của hạnh nhân được bán ở Mỹ đã bị vô hiệu hóa, nhưng bên cạnh đó nó còn mang theo thành phần hóa học mang độc tính gây ung thư với khả năng khử trùng tốt. Chất khử trùng này có mặt trong hầu hết các loại hạnh nhân mạo danh được dán nhãn “hữu cơ” và “tươi sống”.
Theo ghi nhận của FDA, khổ hạnh nhân là “độc”, nhưng bằng cách nào đó mà nó đã trở nên nguy hiểm chỉ sau khi công bố những phát hiện vitamin B17 trong khổ hạnh nhân ức chế tăng sản tế bào ung thư.
Loài người đã ăn khổ hạnh nhân trước đó 9000 năm lịch sử mà chẳng có một ca tử vong nào được kiểm chứng, hay bất kỳ những vấn đề sức khỏe nghiêm trọng.
FDA công bố rộng rãi một trường hợp tử vong do khổ hạnh nhân, nhưng khi điều tra thì vỡ lẽ ra là đứa trẻ tử vong bởi hóa trị liệu của bệnh viện. Cả hai bản báo cáo khám nghiệm tử thi và thông cáo trên báo chí đã tự ý bỏ qua các mốc thời gian của liệu pháp hóa trị.
Thông báo khẩn. Khi sử dụng vitamin B17 (laetrile) hoặc bất kỳ những phương pháp điều trị thay thế khác để cứu con mình, bạn cần phải sáng suốt về vấn đề này trong cuộc thảo luận khám định kỳ, bởi vì bác sĩ có thể nói cho con bạn biết những loại dịch vụ bảo vệ nó trong khi bạn thì “bỏ bê các vấn đề y tế” của chúng. Bạn đã được thông báo.
- Chữa lành bệnh ung thư: Phương thức Budwig “Tôi có giải đáp về bệnh ung thư đi chẳng nữa thì các bác sĩ người Mỹ sẽ chẳng bao giờ nghe chúng. Họ đến đây để quan sát phương pháp của tôi và bị gây ấn tượng. Kế đó là họ muốn tôi thực hiện một thỏa thuận đặc biệt để họ có thể mang phương pháp đó về nhà và kiếm thật nhiều tiền. Tôi đã không làm thế, và tôi đã bị tẩy chay ở mọi quốc gia.”
- Tiến sĩ, bác sĩ y khoa Johanna Budwig. Cuộc gặp gỡ với tiến sĩ- bác sĩ y khoa
Cô rời bỏ thế giới này vào năm 2003, ở cái độ tuổi 95 chín muồi, nhưng dung mạo của cô trông như mới vừa 70.
Cô được để cử 7 lần cho giải Nobel Y học.
Budwig đã chữa lành bệnh ung thư: không phải là điều trị thông thường. Nhưng đã chữa lành cho những bệnh nhân mắc bệnh nan y; thậm chí ngay cả những bệnh nhân này cũng đã tuyên bố rằng họ đầu hàng số phận, rằng nó “không thể chữa được”, và chỉ còn có nước ngồi chờ chết. Đây không phải là chuyện hiếm gặp ở những người mắc bệnh ung thư.
Cô chữa lành mọi ca ung thư được thải đến chỗ cô, và cô đã nhanh chóng tiến hành chữa trị, đơn giản, rẻ tiền, và vĩnh viễn không sử dụng những thành phần gây độc mà không có bất kỳ tác dụng phụ nào.
Y học của cô thực sự đã làm cho bệnh nhân của mình mạnh mẽ hơn, và tỉ lệ chữa lành bệnh là hơn 90%, bao gồm cả ca ung thư “thời kỳ cuối” tồi tệ nhất. Bệnh nhân của cô ấy trải nghiệm mà không bị tác dụng phụ.
Khía cạnh đáng kinh ngạc nhất vẫn còn bị đàn áp. Vũ khí áp chế căn bệnh ung thư hạng nặng của tiến sĩ Budwig là phó-mát tươi (quark chesse) và dầu hạt lanh (omega 3) rất phổ biến.
Những thứ tưởng chừng như tầm thường này kết hợp với chế độ ăn Budwig kéo oxy vào tận sâu các mô, trong khi đồng thời bảo vệ khỏi bị thiệt hại bởi quá trình oxy hóa.
Bất kỳ thực phẩm nào chứa nhiều thành phần lưu huỳnh có thể được dùng thay thế bằng phó-mát tươi (quark chesse), cũng như sữa chua (không đường) lên men tự nhiên, phó- mát tươi lên men bằng sữa chua (cottage chesse).
Công thức đơn giảm đáng ngạc nhiên của Budwig là omega-3 công với sự kết hợp giữa lưu huỳnh có trong protein với oxy, đã được sử dụng như là một trong những phương cách đơn giản nhất trong chế độ ăn kháng ung thư. Phương thức mà chế độ ăn uống của cô nhấn mạnh là chất béo có giá trị dinh dưỡng.
Tiến sĩ Johanna Budwig cũng nhận ra như tiến sĩ Otto Warburg, bí mật chi phối căn bệnh ung thư là hơi thở đã được Thượng Đế ban- khí oxy.
Xét về mặt kỹ thuật thì nó không hề đơn giản, nhưng bản chất của nó gần như rất đơn giản.
Thủ pháp thực sự là bơm ngược khí oxy sâu vào trong các mô, và để cho các tế bào được tái tạo lại bằng cách cho nó ‘ăn’ thêm một lần nữa. Tiến sĩ Budwig đã tìm ra một cách thông minh, đơn giản và nhanh chóng hơn những phương pháp khác để cải thiện quá trình chuyển hóa oxy hóa ở bệnh nhân của cô ấy.
Tiến sĩ Budwig phát hiện ra rằng ngay cả chế độ ăn được gọi là khỏe mạnh nhất (không chất béo) cũng là một phần rất lớn trong các vấn đề gây bệnh ung thư.
Phương pháp của cô ấy giúp loại bỏ sự tổn hại của chất béo tổng hợp và các thực phẩm trong chế độ ăn làm nghèo nàn hàm lượng oxy của tế bào (các bác sĩ cũng thường khuyến cáo), và thay thế bằng các thực phẩm chữa lành bệnh tự nhiên, và bảo vệ sự sống bằng các acid béo thiết yếu.
Đi cùng chế độ ăn uống, phương thức Budwig cũng nhấn mãnh những lợi ích từ ánh sáng mặt trời, nguồn vitamin D3 kháng ung thư tự nhiên, giảm thiểu căng thẳng, và điều hòa bằng cảm xúc.
“Nếu không có các acid béo, các enzyme cho hoạt động hô hấp bị bất hoạt và người ta sẽ chết ngạt, ngay cả khi chỗ của họ ở có một bầu không khí giàu oxy đi chăng nữa. Một thiếu sót trong các bài báo cáo được đánh giá cao là các acid béo không bão hòa làm suy yếu nhiều chức năng cơ quan quan trọng. Trước hết, nó làm giảm hàm lượng oxy cố định của một người. Chúng ta không thể tồn tại mà không có các acid béo, cũng như chúng ta không thể sống sót mà không có thực phẩm. Điều này đã được minh chứng từ rất lâu."

* - Tiến sĩ Johanna Budwig Phương thức Budwig: Ghi chú sau cùng

Phương thức Budwig bao gồm 2 giai đoạn. Một trong 2 giai đoạn này là phương thuốc tự nhiên được hòa trộn giữa những protein có thành phần giàu lưu huỳnh và dầu hạt lanh cung cấp omega 3.
Dầu cá (chứa omega 3) sẽ không được khuyên dung để tránh những rủi ro bị ô nhiễm, và cơ thể cũng sẽ tổng hợp đủ lượng omega 3 cần thiết từ dầu hạt lanh để cân bằng chính xác đương lượng từ omega 3 đến omega 6.
Giai đoạn còn lại của phương thức Budwig là chế độ ăn uống đặc biệt nhấn mạnh các thự phẩm lành mạnh và các chất béo lành mạnh. Kết quả ấn tượng xảy ra trong vòng 90 ngày. Bệnh nhân được khuyện tiếp tục với chế độ ăn cho 6 tháng, bất kể có những biểu hiện thiếu hụt đi chăng nữa.
Sức mạnh của ánh sáng mặt trời (vitamin D3) trong cuộc chiến kháng ung thư chẳng hề được phóng đại tí nào. 

* Chữa lành ung thư: phương pháp Hoxsey

Có một số quy tắc không hế thay đổi. Như việc thuế má và cái chết là thân hữu của chính phủ vậy.
Phương pháp Hoxsey kháng ung thư là liệu pháp thiên nhiên được bác sĩ Harry Hoxsey tạo ra.
Nó cũng như tất cả các phương pháp điều trị thay thế khác, được sử dụng cho tất cả các bệnh nhân dù cho họ có khả năng chi trả hay không.
Trong lịch sử của “thủ đoạn”, ông được cho là bác sĩ bị bắt giữ nhiều hơn bình thường.
Các thành viên trong bồi thẩm đoàn đã tuyên bố tách biệt thử nghiệm của ông khỏi những bằng chứng y tế bị gian lận. dựa trên bằng chứng áp đảo rằng nền tảng của cả hai phương pháp chữa trị đều an toàn và có hiệu quả cao trong điều trị ung thư.
Không có lấy một ai trong số hơn 10.000 bệnh nhân của Hoxsey sẵn sàng đứng ra theo yêu cầu làm chứng chống lại ông cả.
Một người thụ lý và thi hành án của thành phố Dallas, người đã từng thi hành bắt giữ Hoxsey hơm cả tram lần, cuối cùng cũng phải đến chỗ của Hoxsey để xin chữa trị cho anh trai của mình.
Người thu lý và thi hành án không bào giờ làm phiền Hoxsey lần nào nữa.
AMA từ chối kiểm tra quá trình chữa bệnh của Hoxsey, hay là đánh giá độ an toàn và hiệu quả của nó, bởi vì họ e rằng làm thế chẳng khác nào “hợp pháp hóa” công việc của Hoxsey.
Khoa học thực thụ thì không ngại việc điều tra
AMA chọn lựa mua lại công thức của Hoxsey hơn. Hoxsey đã ra điều kiện là không bao giờ được từ chối bệnh nhân nào, bất kể là họ có khả năng chi trả hay không. AMA đã từ chối điều khoản đó. Sau này, họ bắt đầu những chiến dịch công kích Hoxsey bằng nhiều thủ đoạn trên truyền thông. Thậm chí cón cố gắng mưu sát ông ấy.
Cuối cùng, việc chữa trị bằng phương pháp Hoxsey đã bị cấm ở Mỹ. Những học trò của Hoxsey đã chuyển đến Mexico vào năm 1963 để không phải bị liên lụy.
Vô số người Mỹ mắc bệnh ung thư vào thời kỳ cuối phải thực hiện một chuyến lữ hành đến biên giới Mexico hằng ngày để có quyền tự do sức khỏe và trị liệu Hoxsey.
Tỷ lệ trung bình mà Hoxsey chữa khỏi vào khoảng 80%, nhưng hiển nhiên các trường y không đề cập đến trong giảng dạy chính quy vì nó đã bị FDA loại bỏ. 

- Phương pháp Hoxsey: ghi chú sau cùng

Phương pháp Hoxsey được sử dụng cho những hoạt động cai nghiện, và xây dựng lại hệ thống miễn dịch giống như việc nạp lại đầy đủ năng lượng. Phương pháp đã được kết hợp với một chế độ ăn uống đặc biệt.
Trớ trêu thay, phương pháp Hoxsey lại không có tác dụng với chính Hoxsey, cho nên cuối cùng ông phải quay trở về liệu pháp y học chính thống cho căn bệnh ung thư của mình. Ông đã chết trong vòng 7 năm. Ông tử vong vì nhiễm độc gan do liệu pháp hóa trị, nhưng mỉa mai thay, cái chết cuối đời ông được chẩn đoán đã đến từ “ung thư”.

* Công thức được Hoxsey sử dụng:

Kali Iodid – 150g. Cam thảo, gỗ trăn, cây hắc mai, cỏ ba lá đỏ – 20mg. Rễ cây ngưu bang, rễ sồi, hoàng liên gai và thương lục – 10mg. Cascara và tần bì gai – 5mg.
Những loại thực phẩm cần kiêng: cà chua, dấm, thịt lợn, rượu, muối bột, đường tinh luyện và bột mì trắng –

* Chữa lành bệnh ung thư: Vitamin C

Trong những ngày đầu chỉnh lý những phương pháp điều trị, Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ đã dẫn dầu trong một chiến dịch chống đối Vitamin C dài hơi. Những chỉnh lý bị chống đối là những chỉnh lý cho rằng vitamin C tăng cường hệ miễn dịch và dẫn đến rất ít bệnh lý.
Chiến dịch bôi nhọ và chống chỉnh lý trị liệu bằng các vitamin đã được hưởng ứng bởi AMA.
Bằng những quy định của FDA, vitamin C vẫn “không được thông qua” (bị cấm) sử dụng cho bệnh nhân ung thư, cho đến khi nào nó có “ những mối quan tâm về an toàn”.
Albert Szent-Gyorgyi đã khám phá ra Vitamin C và chiến thắng giải Nobel vào năm 1937.
Và sau đó ông cho biết rằng Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ đã từng nhiều lần nỗ lực đóng cửa viện nghiên cứu của ông.
Nhà nghiên cứu hóa sinh Linus Pauling từng 2 lần chiến thắng giải Nobel, là người đi tiên phong trong việc nghiên cứu mối liên hệ giữa Vitamin C và bệnh ung thư.
Linus Pauling khuyến cáo bệnh nhân ung thư thời kỳ cuối sử dụng 10 gram Vitamin C mỗi ngày, con số đó thấp hơn con số mà FDA ‘khuyến cáo bổ sung hàng ngày’ (RDA-Recommended Daily Allowance) 220 lần.
Tiến sĩ Ewan Cameron (bên trái), Cô Eva Helen Pauling (chính giữa), Linus Pauling (bên phải)
Linus Pauling đã từng làm việc với bác sĩ người Scotland, tiến sĩ Ewan Cameron, người sẽ luôn sẵn sang kiểm tra lý thuyết của ông dựa trên tiền đề là nếu vitamin C đã không chữa trị tốt, thì ít nhất là không gây hại.
Từ nằm 1971 đến 1979, tiến sĩ Cameron đã thực hiện điều trị cho 750 bệnh nhân. Hầu hết các bệnh nhân mắc “bệnh nan y” đều bị y học chính thống gạt sang một bên.
Họ ghi nhận rằng tất cả các bệnh nhân đã sống lâu hơn so với các dự đoán, cơn đau được làm dịu bớt, và một số còn hoàn toàn phục hồi chỉ bằng trị liệu với vitamin C. Một nghiên cứu khác tại một bệnh viện duy nhất, khám phá ra rằng những bệnh nhân được điều trị với acid ascorbic (vitamin C) có tuổi thọ trung bình tăng gấp 4 lần, trong khi đó phương pháp điều trị chính thống cũng ghi nhận cùng một kết quả như thế.
Các nghiên cứu của Pailing và Cameron được đăng trên các tạp chí y khoa ngay lập tức bị kiểm duyệt; cho nên hai người đã viết quyển sách ‘Ung thư và vitamin C’.
Các cộng sự truyền thông đại chúng đã dung quyền lực của mình để chặn đứng việc cho xuất bản những khám phá về dinh dưỡng và cách thức bổ sung. Những khám phá này ảnh hưởng đế quá trình chăm sóc bệnh và triệu chứng trong công tác quản lý công nghiệp.
Lấy một ví dụ, những hành động quen thuộc của phòng khám Mayo…
Sau tất cả mọi chuyện, chúng ta đều biết làm cách nào mà Vitamin C trở nên nguy hiểm.

* Vitamin C trị liệu pháp: Ghi chú sau cùng

Những nhà Vitamin C tiên phong, như Linus Pauling, đã làm thuyên giảm bệnh ung thư của mình trong suốt 20 năm chỉ bằng vitamin C.
Trớ trêu thay, Khi bắt đầu sử dụng xạ trị chính thống vào trước năm ông 90 tuổi. Nó đã giết ông vào năm 1994, ở cái tuổi 93.

* Chữa lành bệnh ung thư: “Trà” Essiac

Rene Caisse là một y tá người Canada đã khám phá ra một công thức thảo dược vào năm 1992, mà dường như nó chứa hoạt tính kháng ung thư rất mạnh mẽ.
Công thức cô đưa ra là một phương thuốc cổ đại từ những người da đỏ bản địa, họ là những cư dân trao cho cô phương thức này hoàn toàn miễn phí. Cô đã đặt tên cho phương thuốc là Essiec (es-ee-ak), là tên của cô ấy được viết ngược lại.
“Trà” thảo mộc Essiac được bào chế từ rễ Goro, chút chít Rumex acetosa, Bột vỏ cây hồng du (Ulmus rubra), và đại hoàng Thổ Nhĩ Kỳ.
Cuộc chiến với các nhà sáng lập y tế ngay lập tức bắt đầu diễn ra tại phòng khám mà y tá Caisee mở.
Bộ Y tế và phúc lợi quốc gia tại Ottawa đã cử người bắt giữ cô vì hành nghề mà không có giấy phép, nhưng trong trường hợp này các bác sĩ cũng từ chối hợp tác để bắt giữ cô.
Uy tín mà các bác sĩ có được cũng là nhờ việc cô làm mang lại (gồm có tiến sĩ – bác sĩ y khoa Charles Brusch của đại học Cambrige, Massachusetts) cũng như cách mà cô mang lại đam mê cho công việc của mình.
Những người tham gia vào các nỗ lực nhằm bắt giữ Rene Caisse đã cho bố trí một nghiên cứu thử nghiệm Essiac trên chuột, để công khai hạ thấp uy tín công việc của cô ấy.
Những con chuột được điều trị bằng Essiac sống lâu hơn với liệu pháp Essiac hơn hẳn bất kỳ nghiên cứu điều trị nào của họ trước đây.
Năm 1938, Rene Caisse đã đi trước cơ quan lập pháp y tế Canada, nằm mục đích nhận được quyền hợp pháp cho Essiac (được thông qua). Cô đã để bị vuột mất 3 phiếu, sau khi phần lớn trình bày của cô đã bị tùy tiện bác bỏ.
Các nhà sang lập y tế Canada tuyên bố rằng tất cả các ca bệnh được chữa lành đã bị chẩn đoán sai, đó chỉ là những sự cố trùng hợp ngẫu nhiên.
Sau khi mắc chứng suy nhược thần kinh, Caisse không thể tiếp tục để mình bị ray rứt vì những cây thảo dược của mình, và đã giúp mọi người tại tầng hầm của riêng mình với rủi ro bị bắt có thể ập đến bất cứ lúc nào.
Cùng lúc đó, những bệnh nhân người Canada đã đâm đơn kiện các nhà sáng lập y tế, đòi hỏi nhân quyền được điều trị phương pháp mà họ đã lựa chọn cho đến khi cô qua đời ở tuổi 90 vào năm 1978.

*“Trà” Essiac: Ghi chú sau cùng

“Trà” Essiac không hẳn là loại trà thường thấy. Đây là một hỗn hợp thảo mộc đã được sấy, phơi khô và đun trong nước sôi. Sau khi đun sôi, hỗn hợp công thức cần được để yên ít nhất 12 tiếng đồng hồ, mà không phải gạn hay lọc bỏ bất kỳ cái gì trong thành phần. Sau đó, hỗn hợp được lọc và làm ấm để dùng ngay.
Tránh sử dụng nhựa hay là nhôm để chứa đựng hỗn hợp công thức này. Nếu nó nổi váng màu xanh lá, hãy đem bỏ hỗn hợp này đi. Tiếp xúc với ánh sáng mặt trời làm suy yếu công năng chữa bệnh của nó. Không làm lạnh hỗn hợp.
Liệu pháp Essiac không có chế độ ăn uống “chính thức”, nhưng nhà sản xuất khuyến cáo sử dụng chế độ ăn uống của Budwig. Chế độ ăn Budwiq được kéo dài xuyên suốt bộ phim này, nhưng bạn có thể tìm thêm thông tin tại HealthWyze.orrg. Các phương thức Budwig và Essiac an toàn khi sử dụng chung với nhau, và tốt hơn là nên như thế.

*Chữa lành bệnh ung thư: liệu pháp Gerson

Tiến sĩ- bác sĩ Y khoa, được sinh ra tại Wongrowitz, Đức, vào năm 1881. Ông đã phát triển một chế độ ăn uống có thể ngừa đau đầu.
Chế độ ăn uống này vô tình đã chữa khỏi một trong những bệnh nhân của ông đang bị lao màng phổi. Công tiếp tục nghiên cứu dinh dưỡng trong vai trò là một liệu pháp y tế, và ông đã chữa lành cho nhiều bệnh nhân lao màng phổi bằng cách chỉ sử dụng một loại thực phẩm duy nhất.
Một trong những thử nghiệm tại bệnh viện đại học Munich, 446 trong số 450 bệnh nhân bị lao màng phổi (tức chiếm 99,1%) được điều trị bằng phương pháp Gerson đã hồi phục hoàn toàn. Ông ấy nhanh chóng cùng với người bạn của mình là Bác sĩ Albert Schweitzer chiến thắng giải Nobel, bằng việc chữa lành bệnh lao phổi cho vợ của Albert. Tất cả những liệu pháp điều trị chính thống đã bị đánh bại.
Tiến sĩ Gerson tị nạn từ Đức sang Mỹ vào năm 1936, khi Đức Quốc Xã bắt đầu phát lệnh bắt giữ người Do Thái.
Vào năm 1938, Gerson đã được cấp giấy phép hành nghề tại Nữu Ước.
Ông đã chữa lành hang trăm ca bệnh ung thư. Hầu hết những ca bệnh đã được y học chính thống từ chối trong vô vọng (ví dụ như “những ca đã vào giai đoạn cuối”)
Năm 1958, Gerson cho xuất bản ‘Liệu pháp kháng ung thư: đúc kết từ 50 ca bệnh”, quyển sách chứa những chi tiết về lý thuyết, phương pháp điều trị, và kết quả của ông.
Phác đồ điều trị của Gerson thì ít tích cực và khó khăn hơn so với những liệu pháp kháng ung thư thay thế thành công nhất, rất dễ hiểu vì phần lớn thời gian điều trị chỉ sử dụng liệu pháp dinh dưỡng. Thế nên rất khó xác định các thống kê trung bình về những thành công của nó trong việc điều trị bệnh ung thư, nhưng hầu hết bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối có tỷ lệ phục hồi hơn 50%.

*Liệu pháp Gerson: Ghi chú sau cùng

Thực đơn cho chế độ ăn uống này bao gồm các loại cây ăn trái và rau trồng hữu cơ, nước ép nguyên chất (8 ounces ~ 0.24 liters mỗi giờ, vị chi là 13 lần mỗi ngày), ngày 3 bữa chay, một hỗn hợp gồm Kali-Vitamin B12-và Vitamin C.
Lượng hỗn hợp Kali-Vitamin B12-và Vitamin C được sử dụng phụ thuộc vào bệnh nhân, phân loại bệnh ung thư, và cách mà bệnh lý ung thư tiến triển. Các tỷ lệ được lý giải trong quyển sách, “Chữa lành bằng cách của Gerson”, được con gái của bác sĩ Gerson- Charlotte Gerson viết lại. Có thể liên lạc với viện Gerson để có thêm thông tin (gerson.org)
Đối với trường hợp tồi tệ nhất (giai đoạn cuối), phải sử dụng cà phê và hoa cúc đổ ống, chúng có một tác động đáng ngạc nhiên là làm trẻ hóa bệnh nhân ung thư.

* Chữa lành ung thư: liệu pháp Oxy/ Ozone

Kể từ khi tiến sĩ Otto Warburg khám phá ra mối tương quan giữa các tế bào thiếu hụt oxy và nguyên nhân gây bệnh ung thư, các phương pháp để gia tăng hàm lượng oxy đã được nghiên cứu rỗng khắp.
Liệu pháp Ozone hiện nay được xem là một phương pháp điều trị y tế chính thống ở Đức dành cho một loạt ca bệnh như đột quỵ, ung thư, eczema, hoại tử và herpes.
Tuy nhiên, ở Hoa Kỳ, thì ozone vẫn chưa được hiệp hội ung thư Hoa Kỳ của Rockefeller kiểm tra, và do đó không được sử dụng trong việc hỗ trợ các bệnh nhân ung thư.
Họ đã thống nhất quan điểm trên một cách chính thức vào năm 1993, và đã không thay đổi nó, mặc dù nghiên cứu đã chứng minh tính hiệu quả.

* Liệu pháp Oxy/Ozne: Ghi chú sau cùng

Bệnh nhân ung thư vào thời kỳ cuối có thể được thực tập sinh truyền nhỏ giọt Hydro Peroxide đường tĩnh mạch cách quãng hay liên tục.
Những ca bệnh nhẹ ít nghiêm trọng hơn có thể tiêu thụ một lượng nhỏ tầm 3% lượng Hydro Peroxide có trong thực phẩm nhiều lần trong ngày kết hợp với những kế hoạch điều trị thay thế khác.
Máy tạo Ozone cũng có thể hỗ trợ tăng nồng độc oxy đến phổi.
–“Thượng Đế đã ban dược phẩm đến cho nhân loại, và điều đó có nghĩa là sự khôn ngoan của Ngài sẽ không khinh rẻ chúng.”
Kinh Thánh, Sách Huấn Ca 38:4
“…và hoa trái sẽ trở nên lương thực, và cành lá của chúng là để chữa lành bệnh tật.”
Kinh Thánh, Ezekiel 47: 12